Lịch sử Áo_dài

Tiền thân của áo dài: Áo ngũ thân (1744)

Vua Trần Anh Tông mặc áo viên lĩnh bên ngoài áo giao lĩnh trong tranh Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ thế kỷ 14Giảng học đồ vẽ cách trang phục của người Việt vào thế kỷ 18Đàng Ngoài mặc áo giao lĩnh gài bên phải

Trước khi xuất hiện áo dài lập lĩnh (cổ đứng), trang phục phổ biến của người Việt là áo giao lĩnh (cổ chéo) và áo viên lĩnh (cổ tròn). Ngoài ra còn kiểu áo tứ thân (gồm bốn vạt nửa: vạt nửa trước phải, vạt nửa trước trái, vạt nửa sau phải, vạt nửa sau trái).

Kiểu áo do chúa Nguyễn Phúc Khoát đặt định là áo ngũ thân lập lĩnh (cổ đứng) cài khuy. Áo ngũ thân che kín thân hình không để hở áo lót (chỉ hở phần cổ trắng của áo lót). Mỗi vạt có hai thân nối sống (tổng cộng bốn vạt) tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước chính là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và khép kín nhờ 5 chiếc khuy tượng trưng cho quan điểm về ngũ thường theo quan điểm Nho giáongũ hành theo triết học Đông phương.Các kiểu áo cổ của phương đông xưa luôn có 1 đường may giữa ở vạt trước và sau áo gọi là trung phùng đạo,thể hiện Đấng quân tử nên tìm đạo lý,Kẻ trượng phu gìn kỹ tinh hoa ,chính trực

Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1744)

Áo dài ngũ thân, khoảng năm 1900

Với tham vọng lập quốc một cõi, Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát ban hành sắc dụ về ăn mặc cho toàn thể dân chúng xứ Đàng Trong phải theo đó thi hành để phân biệt với Đàng Ngoài. Trong sắc dụ đó, người ta thấy lần đầu tiên sự định hình cơ bản của chiếc áo ngũ thân Việt Nam, như sau: "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo lập lĩnh ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn ống tay hẹp cho tiện khi làm việc thì được phép..." (sách Đại Nam Thực lục)

Từ đó bèn thay đổi y phục, đổi phong tục, cùng dân đổi mới, bắt đầu hạ lệnh cho nam nữ sĩ thứ trong nước, đều mặc áo nhu bào, mặc quần, vấn khăn, tục gọi quần chân áo chít bắt đầu từ đây.

Hôn lễ đối với dân thường Bắc Bộ, nữ đội hôn lạp, guốc cong, nam đội nón ngựa (chóp nhọn), xỏ hài, dâu rể mặc áo tấc có thêu hoa văn dạng bàn cổ. Hôn lễ với Nam bộ cô dâu và phù dâu đội nón gụ. Hôn lễ đối với quí tộc, nữ kết kim ước phát, nam đội mũ theo bổ phục. Dân thường xỏ hài, guốc; quý tộc xỏ hài cong (giống như tích), cung nhân xỏ guốc sơn son thiếp vàng.

Thời vua Minh Mạng (1828)

Lễ phục nam giới thời Nguyễn, tranh: Marie Antoinette Boullard-Devé

Cho đến thế kỷ 17 truyền thống mặc váy vẫn tồn tại ở Việt Nam như đã ghi trong sách Lê Triều Thiên Chính đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm 1665 với sắc lệnh nhắc nhở: "... áo đàn bà con gái không có thắt lưng, quần không có hai ống từ xưa đến nay vốn đã có cổ tục như thế..."

Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), triều đình Huế ra chiếu chỉ cấm đàn bà mặc váy và bắt phải mặc quần hai ống, nên hồi ấy mới xuất hiện câu ca dao than vãn:

Tháng Tám có chiếu vua raCấm quần không đáy, người ta hãi hùng!

Các thời vua kế tiếp

Áo ngũ thân cổ đứng giúp tăng vẻ đài các, sang trọng cho người mặc được thể hiện qua hoa văn thêu truyền thống. Áo lập lĩnh (cổ đứng) dễ dàng kết hợp với những đôi hài, tích, guốc cong, nón 3 tầm, xà tích, trâm và là áo mặc bên trong của những loại áo quí tộc (nhật bình, bình lĩnh, mã quái, mã tiên, bàn lĩnh, giao lĩnh).

Đối với phụ nữ trước năm 1885, áo ngũ thân (dài và rộng dần đến đầu gối) được mặc kết hợp với trâm và nón cụ (đối với Huế và Nam bộ), nón quai thao hay nón 3 tầm (đối với Bắc bộ), được mặc kết hợp với quần đen hoặc quần đỏ. Sau thời vua Thành Thái, do bị Pháp cướp vàng bạc trong triều đình, áo ngũ thân kết hợp với khăn vấn, khăn vành dây và do bị Tây hóa nên mặc quần trắng.

Áo dài tân thời (1934)

Loại áo dài này ban đầu bị các bậc trí thức phản đối kịch liệt vì "me tây" (theo Nguyễn Công Hoan), được gọi là áo tân thời. Giai đoạn này nếu trong gia đình có những thế hệ sinh trước năm 1920, khi mặc áo có tà dài gần đến mắt cá chân sẽ bị đem ra cắt cho tà ngắn đi (bằng với áo thời Nguyễn) vì cho rằng áo dài tà là theo Pháp và mất truyền thống. Sau những năm 1940, áo dài kết hợp với nón lá (trước kia chỉ đàn ông đội nón chóp này), hay là khăn đóng. Tà áo dài tân thời được kéo dài đến mắt cá chân, từ đó đến nay mẫu áo này được nhiều người ngộ nhận là áo dài truyền thống. Những năm 2007, áo dài được cách tân với nhiều chất liệu hơn (như ren).

Áo dài Lemur (1934)

"Le Mur" chính là cách dịch sang tiếng Pháp của Cát Tường, một họa sĩ tên Le Mur Nguyễn Cát Tường vào thập kỷ 1930 đã thực hiện một cải cách quan trọng trên chiếc áo ngũ thân để biến nó chỉ còn lại hai vạt trước và sau mà thôi. Vạt trước được họa sĩ nối dài chấm đất để tăng thêm dáng vẻ uyển chuyển trong bước đi đồng thời thân trên được may ôm sát theo những đường cong cơ thể người mặc tạo nên vẻ yêu kiều và gợi cảm rất độc đáo. Để tăng thêm vẻ nữ tính, hàng nút phía trước được dịch chuyển sang một chỗ mở áo dọc theo vai rồi chạy dọc theo một bên sườn, điểm chia hai tà áo trước - sau cũng trễ dưới eo độ 8 cm. Điều khác biệt nhất là eo áo được nhấn nhẹ. Áo này khi mặc lên hơi sát vào bụng, nên trông như ngực nở ra. Đó là nét mỹ thuật Âu Tây đầu tiên được đưa vào y phục phụ nữ Việt mà cũng vì chuyện này từng gây phản ứng mạnh một thời trong dư luận. Tuy nhiên, áo dài Le Mur có nhiều biến cải mà nhiều người thời đó cho là "lai căng" thái quá, như áo may ráp vai, ráp tay phồng, cổ bồng hoặc cổ hở. Thêm nữa áo Le Mur mặc cho đúng mốt phải với quần xa tanh trắng, đi giày cao, một tay cắp ô và quàng vai thêm chiếc bóp đầm. Lối tân thời này tuy được nhiều người yêu thích nhưng cũng đã bị một số dư luận khi đó tẩy chay và cho là "đĩ thõa" (như được phản ảnh không hề thiện cảm trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng).

Theo sách Áo dài Lemur và bối cảnh Phong Hóa & Ngày Nay của tác giả Phạm Thảo Nguyên (do Khai Tâm và Nhà xuất bản Hồng Đức phát hành năm 2019 và tư liệu trong cuốn sách do Nguyễn Trọng Hiền, con trai họa sĩ Lemur Nguyễn Cát Tường sưu tầm và gìn giữ) thì trên báo Phong Hóa số 90 ra ngày 23 tháng 3 năm 1934, ông Cát Tường mạnh dạn đưa ra mẫu áo dài Lemur ("Le Mur" chính là cách dịch sang tiếng Pháp của Cát Tường) đầu tiên. Theo đó, khi phát hiện chiếc áo dài mà người phụ nữ mặc trong lót áo yếm làm thân hình phẳng lì quá, họa sĩ tìm tới chủ hiệu Cự Chung chuyên sản xuất áo khoác, áo bơi ở phố Hàng Bông, đề nghị dệt thêm… nịt vú mới để nâng ngực cho người mặc. Đến năm 1935 thì cho xuất xưởng những chiếc áo đầu tiên. Do được nội hóa, giá cả vừa phải hợp túi tiền người mua nên từ đó, phụ nữ Việt Nam có đầy đủ “phụ tùng”, hết ngại mặc chiếc áo dài Lemur tân thời duyên dáng mà sắc đẹp lại được nổi bật, sang trọng khiến các bà, các cô hãnh diện bước ra đường, tạo ra một phong trào đổi mới y phục phụ nữ quy mô sâu rộng nhất ở Việt Nam

Cũng trong năm 1935, họa sĩ Cát Tường đã thực hiện một chuyến đi xuyên Việt để giới thiệu cho phụ nữ toàn quốc chiếc áo dài tân thời Lemur. Tại Huế, ông may mắn gặp bà Công Tằng Tôn Nữ Trinh Diêu, người từng được nhiếp ảnh gia Võ An Ninh chụp nhiều ảnh nghệ thuật, và ông được nhà Nguyễn mời thực hiện riêng một tủ áo dài tân thời Lemur cho Hoàng hậu Nam Phương. Sau này ông còn tiếp tục đi vào Nam vẽ áo dài cho nhiều nghệ sĩ cải lương, trong đó có nghệ sĩ Phùng Há.

Họa sĩ Lê Phổ cũng không có cải tiến áo dài Lemur theo cách dung hòa giữa váy phương Tây với áo ngũ thân truyền thống như nhiều lời đồn. Khi tiệm Marie khánh thành (tiệm của Lê Nghi Sương là cháu họa sĩ Lê Phổ), họa sĩ Cát Tường có giới thiệu một thợ may giỏi cho Lê Phổ. Trong cuốn đặc san ĐẸP Mùa Nực 1934 của Cát Tường, Lê Phổ có một trang vẽ nữ trang chứ ông không hề thiết kế áo dài. Tới cuối tháng 10 năm 1937, Lê Phổ trả người thợ may giỏi lại cho hiệu may Lemur để đi Pháp lần thứ hai, sau khi chuyện tình duyên của ông với người bạn gái bị tan vỡ thì Lê Phổ không trở về nữa mà lấy vợ và ở lại hẳn nước Pháp vẽ tranh tới khi mất. Trên Báo Phong Hóa số 115 ngày 14 tháng 9 năm 1934 có đăng một quảng cáo: “May quần áo phụ nữ lối mới và lối cũ. Có họa sĩ Lê Phổ cho kiểu”. (Cho kiểu không phải là vẽ kiểu mới, mà chỉ là chọn một kiểu trong số kiểu áo Lemur có sẵn cho mỗi khách hàng. Có thể chỉnh sửa chút ít cho hợp dáng người, cũng như chọn hàng hợp với màu da khách. Như bác sĩ “cho thuốc” là cho đơn, đi mua thuốc làm sẵn).[3]

Một số kiểu áo Lemur thập niên 1930
  • Các cô thanh nữ mặc áo dài tân thời Lemur, ảnh in trên báo Ngày Nay năm 1938.

Đời sống mới (1945)

Năm 1947 trong bối cảnh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới tuyên bố độc lập và các phong trào "diệt giặc đói, giặc dốt" đang được phát động, nhằm phát động phong trào tiết kiệm, ngày 20 tháng 3 năm 1947, Hồ Chí Minh, với bút hiệu Tân Sinh, đã viết một cách vắn tắt rõ ràng và dễ hiểu bài "Đời sống mới" trong đó vận động người dân bỏ thói quen mặc áo dài để thay bằng áo vắn vì mặc áo dài đi đứng, làm việc bất tiện, lượt thượt, luộm thuộm. Áo dài tốn vải, khoảng hai cái áo dài may được ba cái áo vắn, nếu chỉ mặc áo vắn có thể sẻn được 200 triệu đồng/năm. Áo dài không hợp với phụ nữ Việt Nam đời sống mới[4]. Cuộc vận động này dần đã được người dân hưởng ứng và áo dài không còn là trang phục thông dụng của phụ nữ Việt Nam trong một thời gian dài ở miền bắc vĩ tuyến 17.

Áo dài Trần Lệ Xuân (1958)

Áo dài Trần Lệ Xuân

Cuối năm 1958 khi bà Trần Lệ Xuân còn tại vị Đệ Nhất Phu Nhân của nước Việt Nam Cộng Hòa, bà đã thiết kế ra kiểu áo dài cách tân mới bỏ đi phần cổ áo gọi là áo dài cổ thuyền, cổ hở, cổ khoét, dân gian gọi là áo dài Trần Lệ Xuân hay áo dài bà Nhu. Không chỉ lạ về mẫu áo, chiếc áo dài hở cổ còn được ‘phá cách’ với họa tiết trang trí trên áo: nhành trúc mọc ngược. Một số nhà phê bình phương tây cho rằng nó hợp lý với thời tiết nhiệt đới của miền nam Việt Nam. Nhưng kiểu áo này khiến những người theo cổ học lúc đó tức giận và lên án nó không hợp với thuần phong mỹ tục. Loại áo dài không có cổ này vẫn phổ biến đến ngày nay và phần cổ được khoét sâu cho tròn chứ không ngắn như bản gốc.

Áo dài với tay Raglan (1960)

Thập niên 1960 có nhà may Dung ở Dakao, Sài Gòn đưa ra kiểu may áo dài với cách ráp tay Raglan (giác lăng). Cách ráp này đã giải quyết được vấn đề khó khăn nhất khi may áo dài: những nếp nhăn thường xuất hiện hai bên nách. Cách ráp này cải biến ở chỗ hàng nút cài được bố trí chạy từ dưới cổ xéo xuống nách, rồi kế đó chạy dọc một bên hông. Với cách ráp tay Raglan làn vải được bo sít sao theo thân hình người mặc từ dưới nách đến lườn eo, khiến chiếc áo dài ôm khít từng đường cong của thân hình người phụ nữ, tạo thêm tính thẩm mỹ theo đánh giá của một số nhà thiết kế.

Bộ sưu tập Nghê - Mậu Tuất 2018

Áo dài miniraglan (1971)

Áo áp dụng rộng rãi cho nữ sinh. Theo phiên bản gốc này, áo ngắn tay Raglan có tà chỉ ngắn tới bàn chân, nhưng hai ống quần ôm lòa xòa phủ kín đôi chân. Quần dùng fecmotuy để cố định, có thêm túi.

Áo dài raglan cổ thuyền phi bóng quần đũi (1988)

Áo cổ thuyền có màu trắng, tím, vàng, đỏ được vẽ hoặc thêu tay. Quần đũi màu đen hoặc trắng.

Áo dài raglan ren hở cổ tà dài mắt cá chân tay lỡ (2007)

Áo dài cưới có chất liệu, kiểu dáng gần với váy cưới soiree (quần đủ các màu, kim tuyến, thêu hiện đại, phéc-mơ-tuya sau lưng, tà áo sau dài xếp ly ra sau để phù dâu cầm). Thời kỳ này, người Việt Nam gần như đã quên hình ảnh truyền thống áo ngũ thân cổ đứng, vấn khăn (hoặc cài trâm), đội nón 3 tầm, chân xỏ hài (hoặc guốc cong).

Áo dài cách tân (2017)

Tết Đinh Dậu 2017 chứng kiến sự “thống lĩnh” mạnh mẽ của tà áo dài, hàng loạt những thiết kế "áo dài cách tân" đã ra đời với kiểu dáng và chất liệu ngày càng phong phú.[5] Đây là những chiếc áo dài có kiểu may tay giác lăng đặc trưng, kết hợp với váy ngắn, váy đụp.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Áo_dài http://saosang.net/thoi-trang/ao-dai-minh-hanh--di... http://vnexpress.net/Vietnam/Kinh-doanh/2006/10/3B... http://www.rfa.org/vietnamese/programs/MusicForWee... http://dantri.com.vn/giai-tri/sao-viet-lang-xe-mot... http://dantri.com.vn/van-hoa/hinh-anh-phu-nu-dien-... http://dantri.com.vn/van-hoa/nhung-bo-ao-dai-viet-... http://laodong.com.vn/van-hoa/nha-thiet-ke-minh-ha... http://kienthuc.net.vn/showbiz/ntk-minh-hanh-lan-h... http://vietnamnet.vn/vn/thi-truong-tieu-dung/10411... http://vietnamnet.vn/vn/van-hoa/223847/minh-hanh-l...